So sánh bối cảnh ra đời, mục tiêu, nguyên tắc hội nhập
Bối cảnh ra đời: Sau thế chiến thứ hai (năm 1945), Tây Âu đổ nát, và nước gây ra cuộc chiến này lại là quốc gia lớn nhất nằm ngay giữa châu Âu (nước Đức). Vì vậy, nguyện vọng được sống trong nền hòa bình vĩnh viễn để cùng nhau phát triển kinh tế và hóa giải mối hận thù truyền thống giữa hai quốc gia lớn nhất châu Âu nằm cận kề nhau: Đức – Pháp, xóa bỏ tận gốc rễ nguy cơ chiến tranh, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời vào năm 1951 của Cộng đồng Than, Thép châu Âu (ECSC), tiền thân của Liên minh châu Âu (EU). Điều đó cũng phù hợp với khát vọng hòa bình, hợp tác chính trị và kinh tế của các nước châu Âu láng giềng khác.
Bạn đang xem: Mô hình hội nhập của EU – ASEAN: những tương đồng, khác biệt và bài học kinh nghiệm – Tạp chí Cộng sản
Thời gian ra đời của EU và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) tuy cách nhau gần 2 thập kỷ, nhưng cả hai tổ chức này đều chịu ảnh hưởng và sự chi phối mạnh mẽ của trật tự thế giới hai cực dưới thời Chiến tranh lạnh. Điểm khác biệt sâu xa dẫn đến sự ra đời của EU chính là sự chín muồi của thời điểm biến ý tưởng và nguyện vọng thống nhất châu Âu thành hiện thực. Chính vì vậy mà trong hơn nửa thế kỷ tồn tại, EU luôn bộc lộ xu hướng phát triển chung là ngày càng thu hẹp tính chất là một tập hợp các quốc gia dân tộc có chủ quyền. Có lẽ đây là điểm khác biệt cơ bản nhất quy định mọi sự khác nhau giữa mô hình EU và ASEAN(1).
EU có dân số hơn 500 triệu người, bao gồm 27 nước thành viên, diện tích hơn 4 triệu km2, GDP khoảng 12.000 tỉ USD, bình quân đầu người khoảng 24.000 USD/năm. Kể từ khi ra đời đến nay, EU đã trải qua 6 lần mở rộng. Còn ASEAN có dân số khoảng 592 triệu người của 10 nước thành viên, diện tích gần 4,9 triệu km2, GDP khoảng 1.000 tỉ USD, bình quân đầu người khoảng 2.000 USD/năm. Kể từ khi ra đời, ASEAN đã trải qua 4 lần mở rộng. Như vậy, xét về trình độ phát triển, hai tổ chức khu vực này rất khác nhau. Dân số và diện tích ASEAN đều lớn hơn EU, nhưng quy mô nền kinh tế (GDP) của EU lớn gấp 12 lần ASEAN, GDP bình quân đầu người của EU cũng lớn gấp 12 lần ASEAN.
Mục tiêu khi thành lập: Động cơ ra đời của EU (mà tiền thân là tổ chức Cộng đồng Than, Thép châu Âu – ECSC) trước hết là nhằm tăng cường hợp tác, liên kết các ngành sản xuất cơ bản của 2 nước Pháp, Đức và 4 nước đồng minh khác là Italia, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg là than và thép vào một cơ quan điều phối chung. Như thế, sự thống nhất châu Âu được thực hiện bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, thương mại và trong một thị trường chưa rộng. Còn đối với 5 nước thành viên ban đầu của ASEAN gồm Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Philippines, động cơ ra đời trước hết là liên kết và hợp tác về chính trị, an ninh, chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của Chiến tranh lạnh.
Về nguyên tắc hội nhập: EU được xây dựng trên nguyên tắc liên bang, sự liên kết, hội nhập được bắt đầu từ kinh tế, dần dần chuyển sang chính trị; xây dựng các thể chế chung vững chắc, đồng thời giữ vai trò hạt nhân, bản sắc dân tộc của các nước thành viên, trên cơ sở luật pháp vững vàng. Còn các nước ASEAN đề ra nguyên tắc hội nhập kiểu hợp bang, lỏng lẻo về xây dựng thể chế, giữ vững vai trò độc lập của các nước thành viên, theo nguyên tắc đồng thuận, bắt đầu từ liên kết về an ninh, chính trị, sau đó dần dần chuyển sang liên kết kinh tế, văn hóa, xã hội, nhưng chưa đạt được những hiệu quả vững chắc.
Các nước EU ngày càng liên kết sâu sắc hơn, còn các nước ASEAN đã tích cực điều chỉnh theo xu hướng xây dựng một liên minh chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội vững chắc, sự liên kết ngày càng có hiệu quả, sâu sắc, chặt chẽ hơn, chiếm địa vị cao và có uy tín trên trường quốc tế.
So sánh về trình độ và mức độ hội nhập
Xem thêm : Mẹ cho con bú uống nước đá được không?
Có thể thấy, EU và ASEAN cùng tiến hành liên kết, hội nhập, nhưng ngay từ thời điểm xuất phát, trình độ phát triển kinh tế của mỗi khu vực đã có sự khác biệt khá rõ.
Vào năm 1951, khi 6 nước châu Âu cùng nhau thành lập ECSC, mức độ phát triển kinh tế của những nước này đã rất cao so với mức trung bình của thế giới. Qua 6 lần mở rộng, tuy trình độ phát triển giữa các thành viên của EU 27 có sự chênh lệnh, không đồng đều, đặc biệt ở những nước thành viên mới gia nhập, song so với trình độ phát triển chung của thế giới, các nước này vẫn xếp vào loại trung bình, thậm chí thuộc loại các nước trong Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), như CH Séc, Hungary…
Trái lại, các nước ASEAN, trình độ phát triển kinh tế vào thời điểm ra đời (8-8-1967), nói chung, thuộc mức thấp so với mặt bằng chung trên thế giới. Cho đến nay, trình độ phát triển kinh tế giữa các thành viên cũng vẫn rất khác nhau. Tại 5 nước thành viên sáng lập là Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Philippines, thu nhập bình quân đầu người hiện nay khoảng 2400 – 3000 USD. Brunei có thu nhập rất cao nhờ xuất khẩu dầu lửa, 4 nước còn lại là Việt Nam, Myanmar, Lào, Campuchia có mức thu nhập bình quân khoảng 600 – 1000 USD/người. Như vậy, khoảng cách thu nhập giữa 5 nước thành viên cũ và 4 nước thành viên mới là rất khác nhau, khoảng từ 3- 4 lần.
Về trình độ, mức độ hội nhập, liên kết của EU và ASEAN cũng rất khác nhau. Các nước EU ngay từ khi ra đời (năm 1951) đã bắt đầu xây dựng các cộng đồng kinh tế (năm 1951 và năm 1957) sau đó dần dần đề ra việc xây dựng liên minh hải quan (năm 1968), thị trường thống nhất, liên minh kinh tế – tiền tệ (năm 1999), mà đỉnh cao là sự ra đời đồng tiền chung euro (năm 2002). Còn các nước ASEAN đến năm 1992 mới ký kết Hiệp định khung tăng cường hợp tác kinh tế và quyết định hình thành Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), một hình thức liên kết thấp hơn thị trường chung, nếu xét ở mức độ mở cửa của nền kinh tế thị trường. Đến tháng 12-2005, tại Hội nghị Thượng đỉnh các nước Đông Nam Á ở Malaysia, các nước đã thảo luận về đề án đồng tiền chung châu Á, với tên gọi ACU (Asian Currency Unit). Từ năm 2006, Ngân hàng Phát triển châu Á bắt đầu chuẩn bị đưa ra đồng tiền chung châu Á, để 20-30 năm sau (đến năm 2026 hoặc 2036) đồng ACU trở thành đồng tiền chung châu Á.
Sự khác nhau giữa EU và ASEAN thể hiện không chỉ ở trình độ phát triển và hội nhập kinh tế, mà còn ở ý tưởng chiến lược liên kết châu Âu được thực hiện có bài bản, theo định hướng rõ ràng, được điều chỉnh theo sự biến động của hoàn cảnh. Sau khi có kết quả khả quan của liên kết kinh tế, các nước EU mới thúc đẩy liên kết chính trị. 15 năm sau khi đã hoàn thành việc xác lập thị trường chung, các nước EU mới ký Đạo luật châu Âu thống nhất với các thỏa thuận cải thiện hợp tác trong lĩnh vực đối ngoại, an ninh, các quy chế pháp lý trong hợp tác chính trị… Khi Hiệp ước Maastricht được ký kết vào tháng 12-1991, EU mới có một văn kiện chính thức về liên minh chính trị. EU luôn bị phàn nàn là khi đàm phán về thương mại, người ta thấy rõ tư cách siêu quốc gia của tổ chức này, còn khi bàn đến các lợi ích chính trị – an ninh thì lại phải thảo luận với từng nước thành viên riêng rẽ. Đây là điểm khác so với ASEAN.
Một sự khác biệt có thể thấy rất rõ nữa là mức độ liên kết nội khối của ASEAN thấp hơn rất nhiều so với sự liên kết nội khối của EU. Tuy ASEAN đã có AFTA, có sự liên kết kinh tế theo hướng ngày càng chặt chẽ hơn, nhưng quan hệ nội khối vẫn còn hạn chế. Trong nhiều năm nay, buôn bán nội khối của ASEAN vẫn chỉ dừng lại ở mức trên 20%, các nước thành viên của ASEAN chủ yếu buôn bán với bên ngoài, không phải buôn bán nội khối, thu hút đầu tư cũng từ bên ngoài. Trái lại, ở các nước EU, buôn bán nội khối là chủ yếu, lên đến 50%, ở một số nước thành viên, con số này lên đến 80%.
Giữa EU và ASEAN cũng có sự khác biệt trong chính sách đối ngoại, mặc dù cả 2 khối đều hướng ngoại, nghĩa là đều hướng mạnh ra hợp tác với bên ngoài, với các đối tác, các thể chế toàn cầu và đều phấn đấu cho một thế giới đa cực. Các nước EU, đặc biệt từ sau khi Hiệp ước Maastricht có hiệu lực (năm 1993), đã thực hiện chính sách đối ngoại và an ninh chung. Việc tuân thủ chính sách đối ngoại và an ninh chung của các nước thành viên EU được xem xét, đánh giá bằng luật pháp nghiêm ngặt. Đặc biệt, sau khi Hiệp ước Lisbon có hiệu lực (tháng 12-2009), EU đã có chức danh “đại diện cấp cao về chính sách đối ngoại và an ninh”, thường gọi là Cao ủy Đối ngoại, hay Bộ trưởng Ngoại giao” của EU, kiêm phó chủ tịch Ủy ban châu Âu. Từ đây, EU có tiếng nói thống nhất với thế giới về chính sách đối ngoại của cả Liên minh. Trong khi đó, về chính sách đối ngoại, 10 nước ASEAN có nhiều điểm tương đồng, nhất là các chính sách về hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển quan hệ với bên ngoài, nhưng từng quốc gia lại có những khác biệt, có những định hướng khác nhau. Do cơ sở pháp lý không chặt chẽ, chỉ dựa trên nguyên tắc đồng thuận, nên mức độ hội nhập ở các vấn đề, kể cả vấn đề đối ngoại của ASEAN cũng lỏng lẻo hơn với EU.
Bài học kinh nghiệm cho ASEAN qua sự hội nhập của EU
Xem thêm : Ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn
Thứ nhất, doEU là mô hình liên kết, hội nhập mang hai dạng thức vừa liên bang (liên kết xây dựng nhà nước siêu quốc gia) vừa hợp bang (liên kết giữa các quốc gia có chủ quyền), trong đó chất liên bang nhiều hơn,còn ASEAN thì ngược lại. Vì vậy, tham khảo mô hình liên kết của EU, các nước ASEAN cần nhất thiết không học tập máy móc, mà phải tính đến những nét đặc thù của mình. Cần nghiên cứu bổ sung những kết quả mà EU đã đạt được, đặc biệt là kinh nghiệm xây dựng ngôi nhà chung EU về hiến pháp(hiến pháp chung EU), trội về kinh tế(các bước phát triển từ thị trường chung, hải quan chung, liên minh kinh tế, tiền tệ, đồng tiền chung…), về chính trị, an ninh (chính sách an ninh và đối ngoại chung…).
Trong quá trình phát triển, EU luôn luôn giữ vững nguyên tắc đoàn kết, nhất trí, đó là bài học ASEAN. Muốn bảo đảm sự đoàn kết thì cần có cơ chế đảm bảo sự đồng thuận. Đồng thuận trong từng quốc gia, đồng thuận giữa các quốc gia thành viên, đồng thuận với cộng đồng quốc tế, từ đó tạo dựng sự thống nhất, có như vậy mới phát triển được. Bài học của EU trong việc thông qua bản Hiến pháp chung cho thấy cần phải có sự đồng thuận. Thí dụ về việc sử dụng đồng tiền chung châu Âu (euro): tuy đã có đồng euro, nhưng không phải tất cả các nước đều sử dụng đồng tiền đó ngay, mà phải có thời gian để đi tới sự đồng thuận.
Thứ hai, để đi đến một thị trường chung như EU hiện nay, ASEAN chắc chắn sẽ phải khắc phục một số vấn đề. Chẳng hạn, sự khác biệt về trình độ phát triển. Không thể có một thị trường chung vận hành một cách thông thoáng nếu trình độ phát triển kinh tế giữa các thành viên còn quá chênh lệch. Do đó, nhiệm vụ của ASEAN trong thời gian tới là thu hẹp khoảng cách phát triển đó. Việc này sẽ khó khăn hơn rất nhiều so với EU vì hai lẽ sau: Một là, sự khác biệt giữa các nước thành viên trong ASEAN quá lớn. Hai là, EU là một thực thể có nhiều tiềm lực, có quỹ để giúp đỡ các nước thành viên mới gia nhập còn nghèo nhằm san bằng khoảng cách phát triển, còn ASEAN trước kia và hiện nay không có loại quỹ lớn như vậy, nên việc thu hẹp khoảng cách dựa trên sự nỗ lực của từng quốc gia thành viên ASEAN là chính.
Thứ ba, cách thức vận hành cơ chế hợp tác. Bài học 45 năm qua của ASEAN cho thấy, chính sự tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và đồng thuận là nguyên tắc bảo đảm sự gắn kết giữa các quốc gia. Nếu rời bỏ nguyên tắc đó sẽ nảy sinh rất nhiều vấn đề, thậm chí có thể đưa đến chia rẽ, nhưng nếu duy trì một cách cứng nhắc các nguyên tắc đó thì sự hợp tác của ASEAN cũng gặp phải những trở ngại. Vì vậy, cần phải tìm cách đáp ứng cả hai nhu cầu: làm cho cỗ máy ASEAN vận hành trôi chảy, đồng thời duy trì được sự thống nhất trong đa dạng. Hiện nay, các nước ASEAN đang cố gắng vận hành theo xu hướng này.
Thứ tư,do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu (năm 2008), đặc biệt từ cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu (từ cuối năm 2009), EU đã bộc lộ rõ những khuyết tật trong cấu trúc mô hình, tổ chức, vận hành cả về chính trị, kinh tế, xã hội. Đó là những mâu thuẫn giữa thiết chế và vận hành của nhà nước siêu quốc gia EU với 27 nước thành viên; sự mâu thuẫn giữa đảng cầm quyền và các đảng phái đối lập ở 27 nước thành viên; sự mâu thuẫn giữa các chính sách giải quyết khủng hoảng nợ công của nhà nước siêu quốc gia EU, hai nước lớn Đức, Pháp với sự phản ứng của người dân ở 27 quốc gia thành viên đòi thay đổi chính sách tài chính khắc khổ của chính phủ bằng chính sách thúc đẩy tăng trưởng, tạo công ăn việc làm nhiều hơn nữa… Đó còn là mâu thuẫn giữa chính sách an sinh xã hội theo nguyên tắc “đóng – hưởng” bất hợp lý với việc cải cách hệ thống an sinh xã hội theo hướng nghiêm ngặt hơn; mâu thuẫn giữa một số nước theo chủ nghĩa biệt lập nhằm giữ vững lợi ích dân tộc của nước mình với các thành viên khác trong EU; mâu thuẫn trong nội bộ các nước sử dụng chung đồng tiền chung châu Âu…
Cơ chế hợp tác linh hoạt, mềm dẻo tạo nên sự thành công cho các nước ASEAN suốt 45 năm qua đang thực sự chịu những thách thức to lớn khi nhu cầu phát triển kinh tế và hội nhập đòi hỏi ASEAN phải hợp tác, liên kết gắn bó với nhau mạnh mẽ hơn. Những kết quả đạt được cũng như những mâu thuẫn nêu trên trong cơ cấu tổ chức, mô hình phát triển, cũng như cách thức vận hành của EU sẽ là những kinh nghiệm để các nước ASEAN tham khảo trong quá trình thúc đẩy liên kết, hội nhập khu vực, xây dựng mô hình thể chế phù hợp với sự đa dạng văn hoá và dân tộc của các nước thành viên./.
___________
(1) Bùi Huy Khoát: “So sánh mô hình liên kết EU – ASEAN”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 4 (45), 2002, tr 3-4 (2) Vũ Khoan: “Nhân kỷ niệm 50 năm ngày ký Hiệp ước Roma và bài học kinh nghiệm đối với ASEAN”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 1 (68) 3/2007, tr 4(3) Vũ Khoan: “Nhân kỷ niệm 50 năm ngày ký Hiệp ước Roma và bài học kinh nghiệm đối với ASEAN” Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 1 (68) 3-2007, tr 5(4) Xvetlana Glinkian: “Hình thành liên minh ASEAN qua lăng kính kinh nghiệm EU”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 3 (78) 2007, tr 11-12(5) Bùi Huy Khoát: “So sánh mô hình liên kết EU – ASEAN”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 4 (45), 2002, tr 4-5(6) Vũ Khoan: “Nhân kỷ niệm 50 năm ngày ký Hiệp ước Roma và bài học kinh nghiệm đối với ASEAN” Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 1 (68) 3-2007, tr 6
Nguồn: https://leplateau.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục